BẢN ÁN SỐ 66/2007/KDTM-ST TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

BẢN ÁN SỐ 66/2007/KDTM-ST TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM: 

1. Ông Nguyễn Thế Nhật Quang  – Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa

2.  Bà Nguyễn Thị Hoa – Hội thẩm nhân dân

3.  Bà CaoThiên Thanh – Hội thẩm nhân dân

Bà Vũ Cát Tiên– Cán bộ Tòa án nhân dân Tp. HN – Thư ký phiên toà

Trong ngày 05 tháng 4 năm 2007, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 103/2006/TLST-KDTM ngày 31 tháng 10 năm 2006 về Tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/KDTM/QĐXX-ST ngày 09 tháng 3 năm 2007 giữa các đương sự:

NGUYÊN ĐƠN:
Ngân hàng TMCP (BPBank)

Trụ sở: số 8 Lê Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn:

Ông Đại Công Tuynh – đại diện theo uỷ quyền số 11 ngày 02.10.2006.

Trú quán: 60 phố Tràng Thi, Hà Nội.

(có mặt).

BỊ ĐƠN:
Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa

Trụ sở: kiốt 62 Đồng Xuân, Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Địa chỉ mới: 59 ngõ Chùa Liên Phái, Hai Bà Trưng, Hà Nội.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn:

Bà Lê Thị Liên – giám đốc

Trú tại: số 12, tổ 13 phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.

(có mặt)

NGỪỜI CÓ QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ LIÊN QUAN: 

1. Ông Võ Văn Trường – sinh năm 1959 (tức Ngô Trường)

2. Bà Đặng Kim Dung – sinh 1960.

Đều trú tại: 9A, tổ 75 Hoàng Cầu, Đống Đa, Hà Nội.

Ông Trường, bà Dung có mặt.

3. Ông Trấn Thành – sinh năm 1961. (có mặt).

4. Bà Bùi Bích Phương. (vắng mặt).

Đều trú tại: khối 3C, nay là số 15, tổ 33 thị trấn Đông Anh, huyện Đông Anh, Hà Nội.

5. Ông Nguyễn Cao Vấn – sinh năm 1953. (vắng mặt).

6. Bà Nguyễn Thị Nội – sinh năm 1957. (có mặt).

7. Chị Võ Thu Trang – sinh năm 1979. (vắng mặt).

8. Anh Đặng Duy Hoàng – sinh năm 1982. (vắng mặt).

9. Anh Đặng Thành Long – sinh năm 1984

Ông Vấn, bà Nội, chị Trang, anh Hoàng, anh Long đều trú tại thôn Lực Canh, xã Xuân Canh, huyện Đông Anh, Hà Nội.

Ông Vấn, chị Trang, anh Hoàng, anh Long đều uỷ quyền cho bà Nội. Đại diện bà Nội có mặt tại Toà

Nhân chứng:

1. Anh Nguyễn Duy Tùng – sinh năm 1972. (vắng mặt).

Trú tại: P512 T3 nhà CXA2 Linh Đàm, Hoàng Mai, Hà Nội

2. Chị Trần Thị Yến – sinh năm 1974

Trú tại: 17 ngách 159/8 Hồng Mai, Hà Nội. (vắng mặt)

NHẬN THẤY

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ và lời khai của các bên đương sự đã trình bày, thì thấy: ngày 05.3.2004 Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa (gọi tắt là bị đơn trong vụ án) có ký hợp đồng tín dụng số G00411202 với Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (gọi là nguyên đơn) để bị đơn vay 1.213.000.000 đồng, thời hạn 36 tháng, lãi suất là 0,93%/tháng, lãi quá hạn bằng lãi suất trong hạn nhân với 150% tính từ thời điểm quá hạn. Ngoài ra, còn phạt do chậm trả theo 0,05%/ngày, trả gốc và lãi vào ngày 25 hàng tháng, 02 tháng đầu trả mỗi tháng 35.600.000 đồng, tháng tiếp theo trả 38.200.000 đồng. Hợp đồng tín dụng này được thế chấp bảo lãnh bằng hợp đồng bảo lãnh số 1246 ngày 04.3.2004 đã công chứng toàn bộ nhà và đất, thuộc quyền sở hữu của anh Võ Văn Trường và chị Đặng Kim Dung tại 9A tổ 75 Hoàng Cầu, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội, mang bằng khoán điền thổ thửa 34, bản đồ 7G1-04 số 10109110294 ngày 20.4.2001 do Uỷ ban thành phố Hà Nội cấp, đã được đăng ký giao dịch đảm bảo tại phường Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội.

Quá trình vay bị đơn đã trả cho nguyên đơn tiền gốc ở hợp đồng này là 958.000.000 đồng, trả lãi trong hạn là 201.890.281 đồng.

Tính đến ngày 16.10.2006, bị đơn còn nợ gốc là 255.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn = 53.104.266 đồng.

Tiền phạt do chậm trả nguyên đơn yêu cầu là 4.564.371 đồng. Cộng các khoản ở hợp đồng này yêu cầu bị đơn trả là 312.668.637 đồng.

Hợp đồng thứ hai bị đơn vay nguyên đơn là:

Hợp đồng G00411203 ngày 07.5.2004 là 05 tỷ đồng, nhưng khế ước nhận nợ và phụ lục hợp đồng 203 vay có 1.440.000.000 đồng (một tỷ bốn trăm bốn mươi triệu đồng), thời hạn vay 36 tháng, lãi suất 0,95%/tháng, lãi suất quá hạn bằng lãi suất trong hạn nhân với 150% và có quy định phạt chậm trả và cũng trả vào ngày 25 hàng tháng, mỗi tháng trả 42.400.000 đồng. Cả 02 hợp đồng đều quy định nếu bị đơn trả không đúng quy định đã thoả thuận thì nguyên đơn có quyền đòi nợ trước hạn và chấm dứt hợp đồng.

Trong hợp đồng này bị đơn đã trả được gốc là 991.400.000 đồng.

Trả lãi trong hạn được 225.977.198 đồng.

Tính đến ngày 12.12.2006 phía bị đơn còn nợ nguyên đơn gốc là 448.600.000 đồng.

Nợ lãi trong hạn là 90.147.210 đồng.

Phạt do chậm trả 7.708.523 đồng.

Cộng các khoản của hợp đồng này nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả là 546.455.733 đồng.

Hợp đồng tín dụng này được bảo đảm bằng hợp đồng bảo lãnh số 04095012 ngày 07.5.2004 tại phòng công chứng số 3 Hà Nội, gồm toàn bộ quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, đứng tên ông Trấn Thành và bà Bùi Bích Phương ở khối 3C nay là nhà 15 tổ 33 thị trấn Đông Anh, Hà Nội, mang thửa đất số 112 bản đồ 47, diện tích nhà 57m2 trên 120m2 đất, được chứng nhận ngày 13.12.2001 và công chứng mua bán ngày 09.4.2004 sang tên ông Thành và bà Phương đã công chứng bảo lãnh.

Hợp đồng tín dụng này còn được bảo đảm nhà đất thứ hai đứng tên hộ gia đình ông Nguyễn Cao Vấn và bà Nguyễn Thị Nội cùng 03 con là chị Ngô Thu Trang, anh Đặng Duy Hoàng, Đặng Thành Long, ở thôn Lực Canh, xã Xuân Canh, Đông Anh, Hà Nội, diện tích 150m2 đất tại bản đồ số 17 thửa số 73, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 201277 ngày 08.02.1999 do Uỷ ban nhân dân huyện Đông Anh cấp. Các hợp đồng bảo lãnh này đều được đăng ký bảo đảm tại Uỷ ban nhân dân thị trấn Đông Anh và xã Xuân Canh, huyện Đông Anh, Hà Nội.

Do phía bị đơn không trả nợ đúng cam kết, nhiều lần nguyên đơn đã yêu cầu và đề nghị bị đơn, người bảo lãnh đôn đốc thanh toán nợ nhưng vẫn không thực hiện đúng cam kết.

Ngày 16.10.2006, nguyên đơn có đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả số tiền còn nợ cho nguyên đơn như hợp đồng hai bên đã ký kết.

Nhưng phía bị đơn do bà Ngô Thị Liên trình bày, bà công nhận Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa có ký 02 hợp đồng tín dụng như nguyên đơn đã nêu trên và bị đơn cũng đã trả được tiền gốc và lãi như nguyên đơn trình bày và 02 hợp đồng tín dụng trên, được bảo lãnh bằng 03 nhà đất của gia đình ông Ngô Xuân Trường, bà Đặng Kim Dung ở 9A, tổ 75, Hoàng Cầu, phường Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội, có giấy tờ hợp pháp.

Hợp đồng G00411203 ngày 07.5.2004 bảo lãnh bằng nhà đất thuộc sở hữu của ông Trấn Thành bà Bùi Bích Phương khối 3C nhà 15, tổ 33, thị trấn Đông Anh, Hà Nội và nhà đất sở hữu, sử dụng của ông Nguyễn Cao Vấn bà Nguyễn Thị Nội và 03 con tại thôn Lực Canh, xã Xuân Canh, Đông Anh, Hà Nội như hợp đồng đã ký kết giữa ba bên. Song do phía bị đơn bị Công ty Lever Việt Nam huỷ hợp đồng vận chuyển với bị đơn nên gặp khó khăn, chưa thanh toán kịp, bị đơn đã có đơn xin giãn nợ, nhưng nguyên đơn không chấp nhận. Mặt khác, khi vay tiền của nguyên đơn, bị đơn đã bị chị Nguyễn Thị Phí Yến và anh Nguyễn Duy Tùng – cán bộ Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lừa và chiếm mất hơn 200 triệu, bị đơn đã yêu cầu nguyên đơn giúp đỡ để lấy lại nhưng nguyên đơn không hợp tác. Nay nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả gốc bị đơn đồng ý, còn khoản lãi quá hạn bị đơn không chấp nhận và yêu cầu nguyên đơn chỉ tính lãi trong hạn cho bị đơn và không phạt tiền chậm trả vì bị đơn đang gặp rủi ro khó khăn. Phía bị đơn cũng cố gắng thanh toán nốt cho nguyên đơn nên ngày 09.02.2007 bị đơn đã thoả thuận với nguyên đơn trả gốc và lãi làm 04 đợt như biên bản hoà giải:

– Đợt 1: trả ngày 30.3.2007 là 170.000.000 đồng.

– Đợt 2: trả ngày 30.5.2007 là 200.000.000 đồng.

– Đợt 3: trả ngày 30.7.2007 là 200.000.000 đồng.

– Đợt 4: trả ngày 30.9.2007 là 262.124.370 đồng.

Còn phạt chậm trả nguyên đơn không yêu cầu thanh toán nữa.

Nhưng sau đó phía bị đơn ngày 12.02.2007 không chấp nhận biên bản thoả thuận này và cho rằng bị đơn chỉ chấp nhận trả lãi trong hạn và gốc, còn lãi quá hạn không chấp nhận được vì bị đơn đã bị Công ty Lever Việt Nam huỷ hợp đồng nên không có khả năng thanh toán được. Mặt khác, bị đơn đã bị 02 cán bộ ngân hàng lừa trên 200 triệu đồng, nay yêu cầu nguyên đơn trừ cho bị đơn. Đồng thời, bị đơn còn cho rằng hợp đồng G00411202 vay ngày 05.3.2004 do vợ chồng ông Trường bà Dung sử dụng để sửa nhà và kinh doanh nên bị đơn không có trách nhiệm thanh toán số tiền ở hợp đồng này. Đề nghị Toà xem xét.

Tại lời khai của ông Nguyễn Duy Tùng và bà Nguyễn Thị Phí Yến – cán bộ Ngân hàng BPBank khai không có việc bà và ông Tùng cầm tiền của Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa. Nếu bà Liên có chứng cứ thì bà Liên cứ khởi kiện thành vụ kiện khác, không liên quan đến Ngân hàng BPBank.

Còn ông Võ Văn Trường và bà Dung thì cho rằng ông có vay tiền của bà Liên thật, nhưng vay mang tính chất cá nhân, chị em trong nhà, không vay ở hợp đồng vay ngân hàng nên ông sẽ trả sau. Ông Trường và bà Đặng Kim Dung công nhận có bảo lãnh nhà 9A, tổ 75 Hoàng Cầu, Đống Đa thuộc quyền sở hữu của mình để Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa vay tiền của ngân hàng và khi ngân hàng yêu cầu ông cũng đã trả thay bị đơn 15.000.000 đồng. ở hợp đồng G00411202 nay còn nợ gốc 240.000.000 đồng, và ông sẽ có trách nhiệm đôn đốc bị đơn trả nợ tiếp và đề nghị BPBank miễn lãi quá hạn cho Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa.

Ông Trấn Thành vàbà Bùi Bích Phương cũng xác nhận có dùng nhà đất của mình để bảo lãnh cho phía bị đơn vay tiền của ngân hàng. Nay bị đơn đang gặp khó khăn, đề nghị ngân hàng miễn lãi quá hạn cho. Ông Nguyễn Cao Vấn uỷ quyền cho bà Nguyễn Thị Nội đại diện cũng trình bày xác nhận vợ chồng ông bà cùng 03 con có ký hợp đồng bảo lãnh cho Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa vay tiền của Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như hợp đồng 03 bên đã ký kết. Song do không hiểu biết hết về pháp luật nên đề nghị Toà xem xét miễn lãi quá hạn cho Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa vì hiện nay Công ty đang gặp khó khăn do làm ăn thua lỗ và với tư cách là bảo lãnh bà sẽ đôn đốc Công ty thanh toán nợ cho ngân hàng để ngân hàng giải chấp nhà cho gia đình bà. Ngày 08.3.2007, phía nguyên đơn có yêu cầu bổ sung đề nghị Toà án buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn toàn bộ gốc và lãi quá hạn và tiền phạt chậm trả như hợp đồng đã thoả thuận. Nay bị đơn không chấp nhận hoà giải ngày 09.02.2007 thì nguyên đơn không cho khoản tiền phạt do chậm trả nữa, cụ thể: hợp đồng tín dụng G00411202 ngày 05.3.2004 gốc là 240.000.000 đồng, lãi 68.445.066 đồng, phạt chậm trả 9.445.600 đồng. Cộng 03 khoản = 317.900.666 đồng.

Hợp đồng tín dụng G00411203 ngày 07.5.2004 gốc = 448.600.000 đồng, lãi quá hạn 118.913.685 đồng, phạt chậm trả là 16.139.234 đồng. Cộng 03 khoản = 583.652.919 đồng. Tổng cộng 02 hợp đồng là 901.553.585 đồng.

Với những yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn, người liên quan và nhân chứng đã trình bày ở trên.

Hội đồng xét xử

Toà án nhân dân thành phố Hà Nội

XÉT THẤY

Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gọi tắt là BPBank có giấy phép kinh doanh số 055689 do Sở Kế hoạch đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 08.9.1993, thay đổi lần thứ 10 ngày 31.5.2006.

Còn Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa cũng có giấy phép kinh doanh số 0103002961 do Sở Kế hoạch đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 06.10.2003 đã thay đổi lần 3 ngày 25.10.2005.

Ngày 16.10.2006, Ngân hàng BPBank có đơn khởi kiện yêu cầu Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa trả nợ tiền vay cho ngân hàng ở 02 hợp đồng tín dụng G00411202 ngày 05.3.2004, hợp đồng G00411203 ngày 07.5.2004 mà hai bên đã ký kết.

Xét đơn khởi kiện của Ngân hàng BPBank vẫn còn trong hạn luật định, đơn đó là hợp lệ và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà Kinh tế Toà án Hà Nội giải quyết.

Căn cứ vào 02 hợp đồng tín dụng và 02 phụ lục hợp đồng, 02 khế ước nhận nợ và 03 hợp đồng bảo lãnh mà các bên đã ký kết thì thấy về hình thức cũng như nội dung hợp đồng hai bên ký kết là hoàn toàn tự nguyện và thoả thuận không trái với quy định của pháp luật.

Đối chiếu với các chứng cứ của các bên xuất trình và lời trình bày trước phiên toà hôm nay thì thấy Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa có ký hợp đồng tín dụng số G00411202 ngày 05.3.2004 để vay 1.213.000.000 đồng là sự thật, hợp đồng có quy định thời hạn vay 03 năm lãi suất 0,93%/tháng, lãi quá hạn, phạt chậm trả, còn quy định vi phạm thời gian thanh toán, thì bên cho vay có quyền chấm dứt hợp đồng. Như đã nêu ở phần trên hợp đồng này phía bị đơn được bảo lãnh bằng nhà đất ở 9A, tổ 75 Hoàng Cầu, phường Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội, thuộc quyền sở hữu của ông Võ Văn Trường và bà Cao Thị Kim Dung, đã đăng ký bảo đảm tại Uỷ ban phường Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội và các bên đã thẩm định tài sản trị giá 1.866.200.000 đồng để bảo đảm cho hợp đồng vay trên. Quá trình vay bị đơn đã trả được gốc là 958.000.000 đồng và trả lãi là 201.890.000 đồng. Nay còn nợ gốc là 255.000.000 đồng. Nhưng quá trình giải quyết người bảo lãnh đã thanh toán cho ngân hàng được 15.000.000 đồng. Nay gốc còn nợ 240.000.000 đồng và lãi quá hạn theo thoả thuận trong hợp đồng mà nguyên đơn đã nêu 68.445.066 đồng, và tiền phạt chậm trả nguyên đơn yêu cầu 9.455.600 đồng.

Hợp đồng tín dụng G00411203 ngày 07.5.2004 thời hạn vay cũng 36 tháng, lãi suất 0,95%/tháng, lãi quá hạn bằng lãi trong hạn nhân 150% (trên 100%) có quy định phạt chậm trả như hợp đồng 202, hợp đồng này bị đơn đã trả được gốc là 991.400.000 đồng, lãi trả được 225.977.198. Đến nay còn nợ gốc là 448.600.000 đồng, lãi là 90.147.210 đồng và tiền phạt chậm trả là 7.708.523 đồng. Hợp đồng G00411203 ngày 07.5.2004 được bảo lãnh bằng nhà và đất của ông Trấn Thành và bà Bùi Bích Phương ở khối 3C, số 15, tổ 33 thị trấn Đông Anh, Hà Nội đã có công chứng bảo lãnh ngày 07.5.2004 hoàn toàn hợp lệ.

Ngoài ra, còn được bảo lãnh toàn bộ mảnh đất 150m2 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Nguyễn Cao Vấn, bà Nguyễn Thị Nội và 03 con cũng được công chứng và thẩm định hợp pháp theo quy định của pháp luật.

Cho đến nay người bảo lãnh vẫn thừa nhận đã bảo lãnh cho Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa vay tiền của Ngân hàng BPBank và đề nghị ngân hàng giảm lãi quá hạn cho Công ty vì đang gặp khó khăn.

Xét các hợp đồng bảo lãnh của những người bảo lãnh là hoàn toàn phù hợp với pháp luật. Phía bị đơn đang đề nghị nguyên đơn không tính lãi quá hạn nhưng phía nguyên đơn không chấp nhận và yêu cầu bị đơn phải thanh toán, trả toàn bộ gốc và lãi quá hạn và tiền phạt chậm trả cho nguyên đơn. Ngoài ra, bị đơn cho rằng số tiền bị đơn vay của nguyên đơn đã bị 02 cán bộ ngân hàng lừa mất trên 200 triệu và vợ chồng ông Trường và bà Dung sử dụng nên bị đơn không chịu trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn hợp đồng G00411202 ngày 05.3.2004.

Xét yêu cầu trên của hai bên đương sự, Hội đồng xét xử thấy rằng 02 hợp đồng tín dụng trên, bên cho vay là Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và bên vay là Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa. Ngoài bị đơn ra trong hợp đồng không có tên một người nào hoặc một Công ty nào khác. Vì thế Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa phải có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nếu Công ty không có khả năng thanh toán nợ thì những người đã đứng ra bảo lãnh phải chịu trách nhiệm bảo lãnh như hợp đồng mà ba bên đã cam kết và hợp đồng bảo lãnh này đều phù hợp với Điều 60 Luật các tổ chức tín dụng đã quy định năm 2004.

Còn việc bà Liên đại diện cho bị đơn cho rằng số tiền bị đơn vay của Ngân hàng BPBank đã bị ông Nguyễn Duy Tùng và bà Nguyễn Phí Yến – cán bộ ngân hàng lừa bà lấy đi hơn 200 triệu. Việc này Toà án đã lấy lời khai của ông Tùng và bà Yến nhưng không ai công nhận. Phía ngân hàng cũng không thừa nhận và phía bị đơn cũng không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình vì thế không có cơ sở để xem xét được yêu cầu này.

Trước phiên toà hôm nay, bà Liên đại diện cho Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa cũng xin rút yêu cầu này để về thu thập chứng cứ giải quyết ở vụ kiện khác. Xét sự tự nguyện rút yêu cầu của bị đơn không trái pháp luật nên chấp nhận.

Còn khoản tiền bà Liên vay ở hợp đồng G00411202 ngày 05.3.2004 bà cho rằng khoản vay này bà đã cho vợ chồng ông Trường sử dụng nhưng vợ chồng ông Trường cho rằng ông vay bà Liên nhiều lần để làm nhà và kinh doanh là tiền riêng của gia đình bà Liên, không phải tiền vay ngân hàng vì thế ông sẽ trả bà Liên sau. Còn việc ông có trả cho ngân hàng 15.000.000 đồng là do ngân hàng yêu cầu người bảo lãnh thực hiện thay bị đơn nên ông có trả để ngân hàng không phát mại tài sản nhà ông.

Song tại phiên toà hôm nay, bà Liên đại diện cho bị đơn cũng đã rút yêu cầu buộc ông Trường phải trả cho bị đơn số tiền ở hợp đồng G00411202 ngày 05.3.2004 và bị đơn sẽ trả toàn bộ số nợ cho ngân hàng. Xét việc rút yêu cầu này của bà Liên là phù hợp với pháp luật nên được chấp nhận.

Trướng phiên toà, ông Ngô Xuân Trường, bà Cao Thị Kim Dung, ông Ngô Văn Thành, bà Nguyễn Thị Nội là người bảo lãnh vẫn nhất trí với việc đã bảo lãnh cho Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa vay tiền của Ngân hàng BPBank. Mọi người đều xác định sẽ đôn đốc phía bị đơn trả tiền cho ngân hàng và đề nghị Toà xem xét miễn lãi quá hạn và phạt chậm trả cho Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa vì bị đơn đang gặp khó khăn. Vấn đề này Hội đồng xét xử thấy rằng bị đơn có bị Công ty Lever Việt Nam huỷ hợp đồng vận chuyển và bị đơn đã có đơn đề nghị với ngân hàng nhưng không được chấp nhận và tại biên bản hoà giải ngày 09.02.2007 nguyên đơn cũng đồng ý miễn tiền phạt cho bị đơn vì thế Hội đồng xét xử thấy rằng không buộc bị đơn trả khoản tiền phạt do chậm thanh toán là có cơ sở nên chấp nhận. Do vậy, buộc Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa phải thanh toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cụ thể: hợp đồng G00411202 ngày 05.3.2004:

– Tiền gốc là : 240.000.000 đồng

– Tiền lãi quá hạn là : 68.445.066 đồng

Cộng là : 308.445.066 đồng

Hợp đồng G00411203 ngày 07.5.2004 gồm:

– Tiền gốc là : 448.600.000 đồng

– Tiền lãi quá hạn là : 118.913.685 đồng

Cộng hai khoản là : 567.513.685 đồng

Tổng cộng tiền gốc và lãi của 02 hợp đồng mà bị đơn phải trả cho nguyên đơn là 875.958.751 đồng (tám trăm bảy năm triệu chín trăm năm tám nghìn bảy trăm năm mốt đồng).

Bác các yêu cầu khác của các đương sự.

Phía bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Nguyên đơn được lấy lại dự phí đã nộp.

Toà án nhân dân thành phố Hà Nội

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điều 29, 58, 59, 60, 61, 245 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2004.

Căn cứ điều 476, 478 Bộ luật dân sự năm 2005.

Căn cứ điều 54, 56, 60 Luật các tổ chức tín dụng năm 2004.

1) Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (BPBank).

2) Buộc Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa trả Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh số tiền còn nợ của 02 hợp đồng tín dụng là G00411202 ngày 05.3.2004: tiền gốc là 240.000.000 đồng (hai trăm bốn mươi triệu đồng), tiền lãi quá hạn là: 68.445.066 đồng. Cộng hai khoản ở hợp đồng này là 308.445.066 đồng (ba trăm linh tám triệu bốn trăm bốn năm nghìn không trăm sáu mươi sáu đồng).

2.1. Hợp đồng G00411203 ngày 07.5.2004 gồm: nợ gốc là: 448.600.000 đồng (bốn trăm bốn mươi tám triệu sáu trăm nghìn đồng), lãi quá hạn là 118.913.685 đồng. Cộng cả gốc và lãi ở hợp đồng này là 567.513.685 đồng.

Tổng cộng cả gốc và lãi của 02 hợp đồng mà Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa phải trả Ngân hàng BPBank là 875.958.751 đồng.

3. Tiếp tục giữ nguyên 03 hợp đồng bảo lãnh đã bảo lãnh cho Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa vay vốn Ngân hàng BPBank để bảo đảm việc thi hành án gồm nhà đất sau:

3.1. Nhà 9A, tổ 75 phường Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội đứng tên quyền sở hữu nhà và quyền sở hữu đất của ông Võ Văn Trường (tức Ngô Trường) và bà Đặng Kim Dung tại thửa số 34 bản đồ 7G1-04, giấy quyền sử dụng đất số 10109110294 ngày 20.4.2001 do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp, đã công chứng ngày 04.3.2004 và bảo lãnh và đăng ký bảo đảm tại Uỷ ban nhân dân phường Ô Chợ Dừa, Đống Đa.

3.2. Còn hợp đồng G00411203 ngày 07.5.2004 được bảo lãnh bằng 02 mảnh đất và nhà sau:

– Nhà khối 3C nay số nhà 15, tổ 33, thị trấn Đông Anh, Hà Nội thuộc quyền sở hữu của ông Trấn Thành và bà Bùi Bích Phương tại thửa đất 112 bản đồ 47 diện tích nhà 57m2 trên 120m2 đất theo giấy chứng nhận ngày 13.12.2000 và trước bạ ngày 09.4.2004, hợp đồng bảo lãnh 04095012 ngày 07.5.2004 đã công chứng và đăng ký bảo đảm.

– Nhà và đất thuộc quyền sở hữu của ông Nguyễn Cao Vấn và bà Nguyễn Thị Nội cùng 03 con tại thôn Lực Canh, xã Xuân Canh, Đông Anh, Hà Nội bản đồ 17 thửa 73 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 201277 ngày 08.02.1999 đã công chứng và đăng ký bảo đảm tại địa phương.

4. Sau khi án có hiệu lực pháp luật người phải thanh toán chưa trả thì nguyên đơn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án phát mại tài sản bảo lãnh theo quy định của pháp luật.

5. Sau khi bị đơn thực hiện nghĩa vụ xong phía nguyên đơn phải trả lại cho người bảo lãnh toàn bộ giấy tờ liên quan đến nhà và đất cho người bảo lãnh đã bảo lãnh ở 02 hợp đồng tín dụng G00411202 và G00411203 ngày 07.5.2004 và ngày 05.3.2004.

Sau khi án có hiệu lực pháp luật bên phải thi hành chưa thi hành thì còn phải chịu lãi suất quá hạn theo quy định của pháp luật.

– Bác các yêu cầu khác của các đương sự.

Về án phí: Công ty cổ phần đầu tư xây dựng quốc tế Group Bình Hòa phải chịu án phí là 25.519.175 đồng.

Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được lấy lại dự phí đã nộp là 12.500.000 đồng tại biên lai 007503 ngày 31.10.2006 tại cơ quan Thi hành án dân sự Hà Nội.

án xử công khai sơ thẩm có mặt các đương sự, vắng mặt chị Bùi Bích Phương vì có đơn xin xử vắng mặt. Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Phương có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định tống đạt án vắng mặt.

Share this post

Trả lời

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *